BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
********************
TÊN ĐỀ TÀI
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Quản lý nhà nước về dân tộc,
tôn giáo
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN
GIÁO
1.1. Khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo
1.2. Đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam
1.3. Quản lý nhà nước đôi với các hoạt động
tôn giáo
1.3.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với
các hoạt đông tôn giáo
CHƯƠNG
2 CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNGỞ VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1.
Quan điểm, chinh sách mới về tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ 1990 đến nay
2.2.
Đánh giá công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay
2.2.1.
Tình hình tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam
2.2.2.
Kết quả công tác quản
lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay
2.3. Thành tựu và hạn chế của công tác quản lý nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
PHẦN MỞ ĐẦU
Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”.
Là một quốc gia đa tôn
giáo, nhưng cộng đồng các tôn giáo hoạt động ở Việt Nam luôn gắn bó, đồng hành
cùng dân tộc; đồng thời, là nhân tố xã hội và văn hoá tích cực góp phần làm cho
nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Việt Nam còn
là một đất nước rất ôn hòa trong quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo, có truyền
thống đoàn kết; đoàn kết toàn dân trong quá trình dựng nước và bảo vệ đất nước.
Việc chung sống hòa bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái,
nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam: thuần túy nhưng phong phú, đan xen nhưng không
mâu thuẫn.
Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, quan hệ tích cực và mang tính xây dựng giữa các tôn giáo và Nhà
nước đã được thể hiện rất rõ và ngày càng được củng cố. Đại đoàn kết toàn dân tộc,
trong đó có đoàn kết hòa hợp các tôn giáo là nguồn sức mạnh nội sinh và là nhân
tố quyết định bảo đảm cho mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm tín ngưỡng,
tôn giáo
- Tín ngưỡng là niềm tin của
con người được thể hiện thông qua những lễ nghigắn liền với phong tục, tập quán
truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
- Tôn giáo là niềm tin vào những gì siêu nhiên,
thiêng liêng hay thần thánh cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức
liên quan đến niềm tin đó.
1.2. Đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
- Yếu tố
địa lý:
+ Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, ảnh
hưởng văn minh sông Hoàng Hà (Trung Quốc) và sông Hằng (Ấn Độ).
+ Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo sớm xâm
nhập vào Việt Nam. Việt Nam có đường biển dài tiếp giáp Thái Bình Dương, thuận
lợi cho giao lưu văn hóa, du nhập tôn giáo.
- Yếu tố kinh tế - xã hội: Sản xuất nông nghiệp
lúa nước lạc hậu, khó khăn gắn chặt với thiên nhiên, tôn giáo tác động vào đời
sống tâm linh của con người để an ủi.
- Yếu tố chính trị: Thời kỳ Bắc thuộc, thuộc Pháp,
chống Mỹ, xây dựng nền độc lập, tự chủ ảnh hưởng đến tôn giáo ở Việt Nam.
1.3. Quản lý nhà nước
đôi với các hoạt động tôn giáo
1.3.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với các hoạt
đông tôn giáo
1.3.1.1.
Nguyên tắc trong công tác tôn giáo
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân, không phân biệt người
theo đạo và người không theo đạo.
- Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và
khog theo tôn giáo.
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa vụ bảo
vệ Tổ quốc.
- Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân phù hợp
với nguyện vọng và lợi ích chinh đáng, hợp pháp cúa các tín đồ được bảo đảm.
- Chống mọi hành vi lợi dụng tôn giáo.
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
việt Nam, các đoàn thể, tổ chức xã hội có trách nhiệm làm tốt công tác vận động
quần chúng.
1.3.1.2.
Chinh sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
- Các tôn giáo ở Việt Nam được hoạt động tự do
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
- Một tôn giáo ở Việt Nam muốn hoạt động hợp pháp
phải đáp ứng đầy đủ nhứng tiêu chí cơ bản sau:
+ Có tín đồ tự nguyện tin theo.
+ Có giáo sỹ hướng dẫn việc đạo.
+ Có giáo lý, giáo luật.
+ Có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động.
- Mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp
luật. Nhà nước xử lý bằng pháp luật bất kể công dân đó theo tôn giáo nào hay
không theo tôn giáo, mọi hành vi lợi dụng tôn giáo, mạo danh tôn giáo để gây rối
trật tự xã hội.
- Các tôn giáo ở Việt Nam đuọc Nhà nước khuyến
khích tham gia các hoạt động giáo dục, từ thiện theo sự hướng dẫn của các cơ
quan nhà nước.
- Các tôn giáo được mở trường đòa tạo.
1.3.1.3.
Nội dung quản lý nhà nước đối với các hoạt đông tôn giáo
- Khái niệm: Quản lý nhà nước về tôn giáo là quá
trình chấp hành và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống
hành pháp để đánh giá, hướng dẫn hoạt động các tôn giáo trong quy định của pháp
luật.
- Nội dung:
+ Xây dựng chính sách, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo.
+ Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo.
+ Phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
CHƯƠNG 2
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNGỞ VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Quan điểm,
chinh sách mới về tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ 1990 đến nay
- Nghị
quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị "Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới” lần đầu tiên khẳng định các quan điểm mới về tôn giáo, tín ngưỡng:
i) tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; ii) tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân; iii) đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp
với công cuộc xây dựng xã hội mới. Từ đây, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng được định hướng: vừa quan tâm giải quyết hợp lý
nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo; nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và
công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
- Trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo, tư duy lý luận của Đảng
về vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện: Chỉ thị 37 (1998) của Bộ
Chính trị chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được
tôn trọng và khuyến khích phát huy". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc” (1998) khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện...
trong tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 7 khóa IX của Đảng (2003) đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận của Đảng
về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Theo đó, nhận thức mới về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:
+
Một là, thừa
nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của
Đảng về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ quan điểm
"tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" đến Nghị quyết 25, Đảng đã
khẳng định rõ hơn “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi
lên chủ nghĩa xã hội". Luận điểm này, một mặt, cụ thể hóa quan điểm
"tồn tại lâu dài" của tôn giáo, nhưng phát triển và làm rõ hơn mối
quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; mặt khác, khắc
phục được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, rằng tôn giáo sẽ nhanh chóng lụi tàn
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+
Hai là, tôn
giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Quan điểm này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về vấn đề
tôn giáo. Nếu như trước đây, tôn giáo thường chỉ được tiếp cận hạn chế từ góc độ
tư tưởng triết học và chính trị, với định nghĩa mang tính kinh điển "tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân"; tín ngưỡng thường được gắn liền với hủ
tục, mê tín dị đoan…, thì giờ đây, tôn giáo tín ngưỡng đã được nhìn nhận là một
phần của lịch sử dân tộc, văn hóa và đạo đức và hơn thế, là thực thể xã hội có
khả năng cố kết cộng đồng và ổn định trật tự, an toàn xã hội... Quan điểm mới
này đặt nền móng cho sự quản lý của các cấp chính quyền và đoàn thể chính trị
xã hội, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm những lợi ích thiết thân của đồng bào
các tôn giáo trong việc thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính
đáng của họ, tương tự như việc bảo đảm các quyền khác của con người như ăn, mặc,
cư trú, nhân quyền, dân chủ…
+
Ba là, giữ
gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Quan điểm này hoàn toàn mới,
có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngưỡng được đề cập tới một cách chính thức
trong văn kiện của Đảng. Trong tâm thức của người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên,
tôn vinh những người có công với dân, với nước không chỉ là một loại hình tín
ngưỡng mà còn là đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Việc Đảng
ta thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với Tổ quốc và nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp
phần định hướng cho các tôn giáo, tín ngưỡng đồng hành, gắn bó với dân tộc, và
việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, đồng thời
cũng là nhân tố quan trọng đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh, tâm lý
của người dân. Bên cạnh việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với dân với nước, Đảng ta cũng
chỉ rõ phải thượng tôn pháp luật, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân
vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Những quan điểm này mang
tính biện chứng sâu sắc trong tư duy lý luận của Đảng trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa xây và chống (xây dựng khối đoàn kết toàn dân, chống phân biệt đối
xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối); giữa giữ gìn, phát huy
các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê tín, hủ tục
nhằm bảo đảm cho môi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh.
* Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn
giáo thể hiện tập trung trong Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX.
- Về Quan điểm chỉ đạo: Nghị quyết 25 đề ra 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
ta về tôn giáo, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo:
+
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Nước ta hiện nay có 16 tôn giáo, với trên 13,2 triệu
tín đồ, chiểm khoảng 13,7% dân số, 42 tổ chức tôn giáo; hơn 80 hiện tượng tôn
giáo mới; trên 80% dân số có đời sống tâm linh. Tín ngưỡng tôn giáo hiện đang
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu dài cùng
dân tộc và cùng với chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, tín ngưỡng
tôn giáo đang có những biến đổi mạnh mẽ trước biến động của thế giới, của xu thế
toàn cầu và sự phát triển đi lên của đất nước. Vì vậy, quán triệt quan điểm này
cần khắc phục các biểu hiện: Chủ quan, duy ý chí, phiến diện trong nhận thức và
giải quyết vấn đề tôn giáo.
+
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc: Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy,
thực hiện quan điểm này, một mặt phải đoàn kết đồng bào theo những tôn giáo
khác nhau; mặt khác, phải đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không
theo tôn giáo, giải quyết tốt mối quan hệ người có tín ngưỡng khác nhau với người
theo chủ nghĩa vô thần. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện
như phân biệt đối xử, đố kỵ, mặc cảm vì lý do tín ngưỡng tôn giáo và kiên quyết
chống ấm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc.
+
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đây là tư
tưởng chỉ đạo quan trọng nói lên thực chất của công tác tôn giáo gắn với mục
tiêu là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu trên chính
là cơ sở để phát huy sự tương đồng, khắc phục sự khác biệt của quần chúng có đạo.
Đối tượng của công tác vận động quần chúng bao gồm: tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành và chức việc trong từng tôn giáo; đồng thời cũng phải vận động quần chúng
không có tôn giáo thực hiện chính sách tôn giáo. Công tác vận động quần chúng
trong công tác tôn giáo bao gồm: Công tác giáo dục, tổ chức phong trào quần
chúng, tổ chức các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống
chính trị ở địa phương, cơ sở. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: Hành chính, quan
liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng hoặc hữu khuynh theo đuôi quần chúng.
+
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác
tôn giáo liên quan đến mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời sống xã hội, mọi ngành mọi
cấp từ Trung ương đến cơ sở. Trong công tác tôn giáo, Đảng là nhân tố lãnh đạo
toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình tiến hành công tác; Nhà nước quản lý
hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo theo quy định của Hiến pháp, pháp luật;
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nước về vận động quần chúng thực hiện tốt chính sách tôn
giáo. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: thiếu cộng tác, phối
hợp chặt chẽ đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng hợp hoặc buông lỏng quản lý, lấn
sân lẫn nhau.
+ Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Đây cũng là một quan điểm quan trọng nhằm xác định rõ các
hoạt động tôn giáo (bao gồm: hành đạo, quản đạo và truyền đạo) đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước bảo hộ chính đạo, đồng thời chống lại tà đạo.
Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện như can thiệp thô bạo vào
công việc nội bộ thuần túy tôn giáo; buông lỏng quản lý trước các hành vi vi phạm
các quy định của Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động tôn giáo.
- Về nhiệm vụ của công tác tôn
giáo:Nghị quyết nêu 6 nhiệm vụ là: Thực hiện có hiệu quả chủ
trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
+
Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và
pháp luật của nhà nước.
+
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống "Tốt đời, đẹp đạo"
trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất
nước.
+
Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh
làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc
để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
+
Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền,
xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo
và công tác tôn giáo ở nước ta.
+
Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo.
Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ
khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và
lâu dài đối với tôn giáo.
* Quan điểm, chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước qua các kỳ Đại hội Đảng từ X - XIII:
- Sau Nghị quyết
25-NQ/TW ngày 12-3-2003 (khóa IX), quan điểm, chính sách tôn giáo tiếp tục được
thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng X, XI, XII, XIII. Thực ra, xuyên suốt các
kỳ Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam từ đại hội VII đến Đại hội XIII đều có
hai quan điểm không thay đổi đó là: (1) tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; (2) chống việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Các kỳ đại hội trên đều
thể hiện quan điểm: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công
dân. Mọi công dân dầu có quyền theo tôn giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo của
mình. Mọi hành vi xâm phạm quyền tự do ấy đều bị xử lý theo pháp luật; không
phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng trong những hoạt động xã hội. Xóa bỏ mặc cảm,
định kiến, thường xuyên củng cố tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào
không có đạo, giữa tín đồ các tôn giáo với nhau, "Giải quyết hài
hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tôn trong, giúp nhau cùng phát triển. Tập trung hoàn thiện
và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính
sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt
đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. đồng thời nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước.
- Công tác tôn giáo và quản lý nhà nước về các hoạt động tín
ngưỡng tôn giáo được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII đã làm rõ nét hơn lộ trình
đổi mới tư duy của Đảng ta về vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo. Đồng bào các
tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự tồn tại, hoạt
động của các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo làm phong phú bộ mặt văn hóa tinh thần
của đất nước. Tuyệt đại đa số tín đồ, chức sắc, chức việc tôn giáo đều thể hiện
xu hướng đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đa phần người Việt Nam đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và cùng với nhiều
phong tục, lễ hội văn hoá khác nhau. Sự đan xen, hòa đồng nhiều tôn giáo, tín
ngưỡng là một trong những nét văn hoá, đặc trưng của đời sống tự do tôn giáo
tín ngưỡng ở nước ta. Đảng ta yêu cầu: “Vận động đoàn kết, tập hợp các tổ chức
tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Đồng thời, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những
yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh
làm thất bại mội âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động
và cơ hội chính trị”.
2.2. Đánh giá công
tác quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Tình
hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
- Hiện nay, các hoạt động
tôn giáo diễn ra cơ bản ổn định, tuân thủ pháp luật, theo đúng Hiến chương, điều
lệ, tôn chỉ, mục đích của tôn giáo và thực hiện theo đúng phương châm hành đạo
gắn bó, đồng hành với dân tộc. Quan hệ giữa chính quyền với tôn giáo ngày càng
cởi mở, gắn bó hơn; khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp, lãnh
đạo của 43 tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã chấp hành nghiêm túc chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống đại dịch
COVID-19 và hướng dẫn của các cơ quan chức năng về phòng, chống dịch.
- Chính quyền các cấp
đã quan tâm hướng dẫn, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của
Giáo hội, tạo sự đồng thuận trong chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, yên tâm
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Một số tổ chức tôn giáo đã tổ chức
đại hội nhiệm kỳ và tiến hành sửa đổi Hiến chương để đảm bảo thực hiện đúng quy
định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
- Quan hệ quốc tế của
các tôn giáo đã góp phần thúc đẩy ngoại giao nhân dân. Các tổ chức tôn giáo ở
trong nước ngày càng có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài.
Quan hệ Việt Nam - Vatican có tiến triển, hai bên đã thống nhất chủ trương nâng
cấp quan hệ lên Đặc phái viên thường trú theo lộ trình chặt chẽ, đảm bảo nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các thông lệ
ngoại giao quốc tế. Hiện nay, các cơ quan chức năng của Việt Nam và Tòa thánh
Vatican đang tiếp tục trao đổi về các nội dung trên và chuẩn bị cho vòng đàm
phán thứ 9 quan hệ Việt Nam - Vatican.
2.2.2. Kết quả
công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay
- Bộ Nội vụ đã chủ động
tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo; kịp thời đề xuất xử lý đối với tình hình phức tạp về tín ngưỡng, tôn
giáo mới phát sinh, cụ thể là: tham mưu xây dựng “Báo cáo đánh giá việc thực hiện
chính sách tín ngưỡng, tôn giáo giai đoạn 2011-2020 và đề xuất mục tiêu, nhiệm
vụ giai đoạn 2021-2030, kế hoạch 05 năm 2021-2025” phục vụ xây dựng báo cáo của
Tiểu ban Kinh tế - xã hội tại Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng; tham mưu bổ
sung những điểm mới về tín ngưỡng, tôn giáo cho dự thảo Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần
thứ XIII của Đảng; báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP…
- Công tác tuyên truyền,
phổ biến đường lối của Đảng và pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được đổi mới,
đẩy mạnh thông qua Trang thông tin điện tử và Tạp chí Công tác tôn giáo; phối hợp
với Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng các phóng sự, chương trình tuyên truyền,
phổ biến việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tín ngưỡng,
tôn giáo; vai trò của các tổ chức tôn giáo tham gia phòng, chống dịch COVID-19.
Qua đó khẳng định tính đúng đắn trong đường lối, chính sách, pháp luật về tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta; kịp thời định hướng dư luận xã hội
về tình hình và công tác tôn giáo; đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch và các đối tượng xấu.
- Đã tiến hành kiện
toàn Ban Chỉ đạo triển khai Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số
162/2017/NĐ-CP; triển khai thực hiện Quy chế phối hợp giữa Bộ Nội vụ với Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng; xây dựng quy
trình xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo; in ấn văn bản pháp luật, tài liệu hỏi đáp pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo; tổ chức 11 hội nghị cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành với
2.977 lượt người tham dự; 04 hội nghị cho cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo với 625 người tham dự; cấp phát 5.342 bộ tài liệu tuyên truyền pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo cho đại biểu tham dự hội nghị. Đã xây dựng 02 bộ tài liệu
môn học Lịch sử Việt Nam và Pháp luật Việt Nam để triển khai giảng dạy trong
các cơ sở đào tạo tôn giáo.
- Công tác quản lý, hướng dẫn các hoạt động tôn giáo: Bộ Nội vụ đã chỉ đạo thực hiện nhiều đổi mới, sáng tạo trong
công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Cụ thể, đã chủ động thiết lập
kênh liên lạc online với lãnh đạo các tổ chức tôn giáo để trao đổi và hướng dẫn
các tổ chức tôn giáo tổ chức hội nghị thường niên, đại hội và các sinh hoạt, hoạt
động tôn giáo theo đúng Hiến chương, Điều lệ và quy định của pháp luật, đã lựa
chọn nhân sự lãnh đạo giáo hội là người có uy tín, gắn bó với chính quyền. Trưởng
ban Ban Tôn giáo Chính phủ có Quyết định ban hành Chương trình, xây dựng và triển
khai kế hoạch thực hiện giảng dạy môn học Lịch sử Việt Nam và môn học Pháp luật
Việt Nam trong các cơ sở đào tạo tôn giáo.
-
Công tác phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo: Bộ Nội vụ đã chủ động trao đổi thông
tin với các cơ quan hữu quan để thống nhất tổ chức triển khai thực hiện
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo. Trong thời gian dịch COVID-19,
Ban Tôn giáo Chính phủ đã phối hợp với Bộ Y tế làm việc với Ban Thường trực Hội
đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai
công tác phòng, chống dịch tới Giáo hội Phật giáo Việt Nam các địa phương; làm
việc với Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam triển khai công tác phòng, chống dịch
COVID-19 trong Công giáo; chủ động hướng dẫn các địa phương triển khai các mặt
công tác đối với hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới, “tà đạo”, “đạo lạ”…
- Trong bối cảnh dịch
COVID-19, các hoạt động đối ngoại tôn giáo được duy trì theo hình thức trực tuyến.
Vòng đối thoại nhân quyền Việt Nam - Mỹ lần thứ 24 được tổ chức theo hình thức
trực tuyến được Đại sứ lưu động về tự do tôn giáo quốc tế Mỹ Sam Brownback đánh
giá là cuộc đối thoại nhân quyền thành công nhất từ trước đến nay, hai bên đã cởi
mở, thẳng thắn chia sẻ thông tin, tình hình về các vụ việc được nêu ra trên
tinh thần xây dựng, hiểu biết lẫn nhau.
2.3. Thành tựu và hạn chế
của công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
- Thành tựu:
+ Nhờ có chính sách tôn giáo đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta, hầu hết các cơ sở thờ tự của tôn giáo đều được sửa chữa,
tu bổ lại. Những cơ sở thờ tự được xếp hạng di tích – lịch sử văn hóa được tôn
tạo, bảo vệ. Các hộ dân lấn chiếm di tích đã được các địa phương và Nhà nước cấp
kinh phí để di dời. Nhờ phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, rất nhiều cơ
sở tôn giáo được thay đổi, trở thành các điểm sinh hoạt văn hóa sôi động, hình
thành các điểm giao lưu của tín đồ.
+
Tiếp theo những đạo luật và văn bản pháp quy về vấn đề tôn giáo đã được Nhà
nước ta ban hành trong thời kỳ trước, ngày 21-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) ra “Quy định về các hoạt động tôn giáo”; tiếp đó, năm 1993, Chính
phủ ra Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
quản lý nhà nước về tôn giáo: Ban Tôn giáo Chính phủ. Sau đó là nhiều văn bản
khác rất quan trọng: Nghị định số 26/CP của Chính phủ “Về các hoạt động tôn
giáo”; Quyết định số 125/2003 ngày 18-6-2003 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc
phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ 7, khóa IX “Về công tác tôn giáo”. Đặc biệt, tháng 7-2004,
việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; tháng
2-2007, Ban Tôn giáo Chính phủ cho công bố Sách trắng “Tôn giáo và Chính sách
tôn giáo ở Việt Nam” là những sự kiện quan trọng, được dư luận rộng rãi trong
nước và quốc tế hết sức quan tâm. Căn cứ vào Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành
“Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”; trong đó,
công tác tôn giáo được coi là công tác vận động quần chúng (thuộc phạm trù công
tác dân vận), với luận điểm quan trọng: “Thực chất công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng”.
- Hạn chế: Tuy nhiên, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc có nơi chưa
phát huy được đầy đủ vai trò, sức mạnh của Nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo
chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp
nhân dân đã thể chế hóa nhưng một số nơi chưa được thực hiện nghiêm túc. “Hệ thống
pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực
tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi,
có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm kỷ luật chưc kịp thời chế tài xử lý chưa đủ
sức răn đe”.
2.4. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
- Một là, nghiên cứu nội
dung Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng liên quan đến quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo để tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Văn
kiện của Đảng. Tổ chức thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng
Chính phủ về các nhiệm vụ trọng tâm quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã
được phê duyệt năm 2021; chủ động nắm bắt, dự báo tình hình để có biện pháp quản
lý hiệu quả, giải quyết kịp thời, dứt điểm các vấn đề phức tạp liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo.
- Hai là, tiếp tục tham
mưu cho Đảng, Nhà nước hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm phát huy nguồn lực
của các tôn giáo đóng góp cho xã hội. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến nhằm
nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của chức sắc, chức việc, nhà tu
hành và tín đồ các tôn giáo. Sơ kết 03 năm thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ; đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy
định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan tạo
sự đồng bộ trong triển khai thực hiện.
- Ba là, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Hướng dẫn các tổ chức
tôn giáo tổ chức đại hội, đại hội đồng nhiệm kỳ theo quy định, đảm bảo nguyên tắc
lựa chọn những chức sắc có đạo hạnh, uy tín, có tinh thần yêu nước, gắn bó, đồng
hành cùng dân tộc tham gia vào ban lãnh đạo các tổ chức tôn giáo. Tiếp tục duy
trì cơ chế làm việc định kỳ giữa Ban Tôn giáo Chính phủ với Hội đồng Giám mục
Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và lãnh đạo một số tổ chức Tin Lành, Cao
Đài... Tiếp tục hỗ trợ, giúp đỡ hoạt động Phật giáo Nam tông Khmer theo chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ.
- Bốn là, tiếp tục rà
soát, giải quyết các vụ việc phức tạp, nổi cộm về đất đai liên quan đến tôn
giáo. Hướng dẫn, đôn đốc các địa phương rà soát hiện trạng đất đai của các tổ
chức tôn giáo; rà soát, hoàn thiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các cơ sở thờ tự tôn giáo. Rà soát, đánh giá hoạt động đào tạo chức sắc của
các cơ sở đào tạo của tôn giáo, không để đào tạo “không đúng quy định” hoặc xuất
cảnh ra nước ngoài tham gia đào tạo trái phép.
TỔNG KẾT
Công tác tín ngưỡng tôn giáo được đề cập trong văn
kiện Đại hội XIII thể hiện Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, tiếp thu những đóng góp
quý báu từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, nhất là nguyện vọng của đồng
bào có đạo, phù hợp với thực tiễn sinh động của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở
nước ta. Đây là cơ sở định hướng trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả công
tác tôn giáo, tiếp tục phát huy “các nguồn lực của các tôn giáo” cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực
của các tôn giáo, chúng ta phải sử dụng tổng hợp các phương thức tác động phù hợp,
nhìn nhận khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội, cả tác động
tích cực, tiêu cực, không đề cao quá mức cũng không phủ nhận sự đóng góp của
các tôn giáo; có cơ chế, chính sách đúng đắn, kịp thời, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để các tôn giáo sử dụng các nguồn lực của mình tham gia vào các hoạt động
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021,
tr.110, 111, 170, 170-171, 171, 117, 89, 171, 171, 188.
2. Đảng Cộng sản Việt
Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II.
H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021, tr. 229.
3. Bộ Nội vụ: Danh mục các tổ chức tôn giáo,
tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tính đến tháng
12/2020 (Kèm theo Công văn số 6955/BNV TGCP ngày 28/12/2020 của
Bộ Nội vụ)
4. Ban Tôn giáo Chính phủ: Công tác tôn giáo 2021, Nxb. Tôn giáo, H, 2021,
tr.44-66
Post a Comment